Tại Điểm d Khoản 7 Điều 3 Luật Đấu thầu số 22/2023/QH15 được sửa đổi, bổ sung tại Khoản 1 Điều 1 Luật số 90/2025/QH15 quy định:
“7. Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp được tự quyết định việc mua sắm trên cơ sở bảo đảm công khai, minh bạch, hiệu quả và trách nhiệm giải trình trong các trường hợp sau đây:
d) Lựa chọn nhà thầu của doanh nghiệp nhà nước không sử dụng vốn ngân sách nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư, đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên không sử dụng ngân sách nhà nước”;
Như vậy, tại Luật Đấu thầu sửa đổi lần này đã tạo điều kiện tối đa, mở ra cơ chế linh hoạt hơn, chủ động hơn cho các doanh nghiệp nhà nước không sử dụng NSNN, đơn vị sự nghiệp công lập nhóm 1, nhóm 2 không sử dụng NSNN “được tự quyết định việc mua sắm trên cơ sở bảo đảm công khai, minh bạch, hiệu quả và trách nhiệm giải trình”. Tuy nhiên, câu hỏi được nhiều người quan tâm đó là như thế nào là đảm bảo công khai, minh bạch, hiệu quả và trách nhiệm giải trình ? Và đối với các đối tượng là các doanh nghiệp nhà nước không sử dụng NSNN, đơn vị sự nghiệp công lập nhóm 1, nhóm 2 không sử dụng NSNN thì nên hay không nên tự quyết định việc mua sắm không theo Luật Đấu thầu ? Đối với nội dung này, Dauthaumuasam.vn xin tổng hợp một số quy định có liên quan, cũng như quan điểm/góc nhìn của chúng tôi về các vấn đề này như sau:
Về vấn đề công khai, minh bạch:
Tại Khoản 4 Điều 3 Luật Phòng chống tham nhũng năm 2018 định nghĩa về công khai, minh bạch như sau: “Công khai, minh bạch về tổ chức và hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị là việc công bố, cung cấp thông tin, giải trình về tổ chức bộ máy, việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, đơn vị”.
Và tại Điều 10, Điều 11 Luật Phòng chống tham nhũng năm 2018 quy định về nội dung và hình thức công khai, minh bạch như sau:
“Điều 10. Nội dung công khai, minh bạch
1. Cơ quan, tổ chức, đơn vị phải công khai, minh bạch theo quy định của pháp luật về các nội dung sau đây:
a) Việc thực hiện chính sách, pháp luật có nội dung liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của cán bộ, công chức, viên chức; người lao động; cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang và công dân;
b) Việc bố trí, quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công hoặc kinh phí huy động từ các nguồn hợp pháp khác;
c) Công tác tổ chức cán bộ của cơ quan, tổ chức, đơn vị; quy tắc ứng xử của người có chức vụ, quyền hạn;
d) Việc thực hiện chính sách, pháp luật có nội dung không thuộc trường hợp quy định tại các điểm a, b và c khoản này mà theo quy định của pháp luật phải công khai, minh bạch.
2. Cơ quan, tổ chức, đơn vị trực tiếp giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân khác ngoài nội dung công khai, minh bạch quy định tại khoản 1 Điều này còn phải công khai, minh bạch về thủ tục hành chính.
Điều 11. Hình thức công khai
1. Hình thức công khai bao gồm:
a) Công bố tại cuộc họp của cơ quan, tổ chức, đơn vị;
b) Niêm yết tại trụ sở của cơ quan, tổ chức, đơn vị;
c) Thông báo bằng văn bản đến cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan;
d) Phát hành ấn phẩm;
đ) Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng;
e) Đăng tải trên cổng thông tin điện tử, trang thông tin điện tử;
g) Tổ chức họp báo;
h) Cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân.
2. Trường hợp luật khác không quy định về hình thức công khai thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phải thực hiện một hoặc một số hình thức công khai quy định tại các điểm b, c, d, đ, e và g khoản 1 Điều này. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thể lựa chọn thực hiện thêm hình thức công khai quy định tại điểm a và điểm h khoản 1 Điều này”.
Trong đó, riêng đối với hoạt động đấu thầu, mua sắm công còn cần phải đặc biệt lưu ý các nội dung, hình thức phải công khai theo quy định của Luật Đấu thầu, Nghị định 214/2025/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn liên quan, chẳng hạn như: Công khai các thông tin về lựa chọn nhà thầu; Công khai thông tin về kết quả thực hiện hợp đồng; Công khai thông tin về chất lượng hàng hóa đã được sử dụng,…
Về vấn đề hiệu quả:
Tại Khoản 7 Điều 3 Luật 22/2023/QH15 đề cập đến “…hiệu quả kinh tế” trong khi tại Luật số 90/2025/QH15 đã sửa đổi thành “…hiệu quả” -> như vậy, hiệu quả ở đây được hiểu là mang hàm nghĩa chung bao trùm hơn, rộng hơn so với quy định cũ trong đó bao gồm hiệu quả về mặt kinh tế.
Ngoài hiệu quả về mặt kinh tế (không bị mua đắt, gây thiệt hại, lãng phí), hiệu quả còn cần được xem xét đến ở một số khía cạnh khác như: Đảm bảo tiến độ, thời gian, kịp thời đưa sản phẩm vào khai thác, sử dụng theo đúng kế hoạch tiến độ đề ra, tránh việc chậm trễ làm ảnh hưởng dây chuyền đến các công việc khác, nhiệm vụ khác có liên quan; Đảm bảo chất lượng, độ bền, tuổi thọ của sản phẩm,v.v…
Về vấn đề trách nhiệm giải trình:
Tại Khoản 5 Điều 3 Luật Phòng chống tham nhũng năm 2018 định nghĩa về trách nhiệm giải trình như sau: “Trách nhiệm giải trình là việc cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền làm rõ thông tin, giải thích kịp thời, đầy đủ về quyết định, hành vi của mình trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao”.
Và tại Điều 15 Luật Phòng chống tham nhũng năm 2018 quy định về trách nhiệm giải trình như sau:
“Cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có trách nhiệm giải trình về quyết định, hành vi của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao khi có yêu cầu của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân bị tác động trực tiếp bởi quyết định, hành vi đó. Người thực hiện trách nhiệm giải trình là người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc người được phân công, người được ủy quyền hợp pháp để thực hiện trách nhiệm giải trình.
Trường hợp báo chí đăng tải thông tin về vi phạm pháp luật và có yêu cầu trả lời các vấn đề liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao thì cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền phải giải trình và công khai nội dung giải trình trên báo chí theo quy định của pháp luật.
Việc giải trình khi có yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền giám sát hoặc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền khác được thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan”.
Như vậy:
Đối với các hoạt động đấu thầu, mua sắm công (và các hoạt động khác như: đầu tư công; quản lý, sử dụng tài sản công,…) trong mọi trường hợp, chủ đầu tư cần đảm bảo công khai, minh bạch, hiệu quả và trách nhiệm giải trình như đề cập ở trên, trong đó nhấn mạnh việc đảm bảo hiệu quả về mặt kinh tế, để luôn sẵn sàng tâm thế chủ động giải trình, thực hiện trách nhiệm giải trình với các cơ quan có thẩm quyền bất cứ khi nào được yêu cầu.
Việc Luật Đấu thầu sửa đổi lần này tạo điều kiện mở hơn, trao quyền lớn hơn – tự quyết định việc mua sắm cho các đơn vị là doanh nghiệp nhà nước không sử dụng vốn NSNN, đơn vị sự nghiệp công lập nhóm 1, nhóm 2 không sử dụng NSNN, nhưng nhấn mạnh đến việc phải đảm bảo công khai, minh bạch, hiệu quả và trách nhiệm giải trình, quyền lớn hơn luôn đi kèm với chịu trách nhiệm lớn hơn về kết quả thực hiện, gắn liền với công tác hậu kiểm, thanh tra, kiểm tra, giám sát của các cơ quan chức năng. Công khai, minh bạch ở đây cũng cần phải được thể hiện thông qua việc quy định cụ thể, rõ ràng nguyên tắc thực hiện việc mua sắm công tại cơ quan, đơn vị trong các Quy chế nội bộ được ban hành của các chủ đầu tư.
Thử đặt một tình huống giả định như sau để thấy rõ hơn yêu cầu về “hiệu quả và trách nhiệm giải trình”: Một đơn vị sự nghiệp công lập X, tự chủ thuộc nhóm 1, có gói thầu mua sắm gồm 01 máy móc, thiết bị chuyên dùng Y phục vụ cho hoạt động của cơ quan, đơn vị với giá trị dự toán là 15 tỷ đồng, sử dụng nguồn vốn từ nguồn thu hợp pháp được để lại chi theo quy định. Ngày 15/8/2025 đơn vị X này căn cứ quy định tại Điểm d Khoản 7 Điều 3 Luật số 22/2023/QH15 được sửa đổi, bổ sung tại Luật 90/2025/QH15 đã tự quyết định việc mua sắm theo dạng khảo sát giá của một số đơn vị cung cấp được cho là có lĩnh vực hoạt động và kinh nghiệm phù hợp trên địa bàn và lựa chọn 1 đơn vị có giá thấp nhất trong số 3 đơn vị cung cấp này để ký hợp đồng mua bán mà không chọn áp dụng việc lựa chọn nhà thầu theo Luật Đấu thầu (tức không đấu thầu rộng rãi hoặc chào giá trực tuyến thông thường) với giá hợp đồng ký là 14,2 tỷ đồng, đến tháng 12/2025 cơ quan X có đoàn kiểm tra, qua kiểm tra và thông qua dữ liệu thu thập được, kiểm tra viên đã xác định giá bán thiết bị Y này (có cùng thông số kỹ thuật, hãng cung cấp, model, xuất xứ) ở cùng thời điểm đã có đơn vị Z thuộc cùng địa bàn tỉnh trúng thầu với giá là 13,7 tỷ đồng (tức giá hợp đồng cơ quan X mua cao hơn 500 triệu đồng) và đề nghị cơ quan X giải trình về hiệu quả kinh tế của việc mua sắm trang thiết bị Y này, vậy cơ quan X cần phải giải trình như thế nào để có thể thuyết phục được vấn đề kiểm tra viên đặt ra !
Trên thực tế, thời gian qua phần lớn các đơn vị thuộc đối tượng quy định tại Điểm d Khoản 7 Điều 3 của Luật Đấu thầu được quyền tự quyết định việc mua sắm nhưng vẫn lựa chọn áp dụng việc mua sắm theo Luật Đấu thầu do vẫn còn tâm lý e ngại làm điều khác biệt/hoặc vấn đề mới, cũng như tâm lý yên tâm hơn, dễ giải trình hơn khi triển khai thực hiện việc mua sắm theo Luật Đấu thầu.
Các chủ đầu tư là các doanh nghiệp nhà nước không sử dụng vốn NSNN, đơn vị sự nghiệp công lập nhóm 1, nhóm 2 không sử dụng NSNN căn cứ quy định nêu trên và điều kiện, khả năng, hoàn cảnh cụ thể để cân nhắc một cách thận trọng, kỹ lưỡng, thấu đáo trước khi lựa chọn việc tự quyết định việc mua sắm không áp dụng theo Luật Đấu thầu hoặc lựa chọn việc mua sắm theo quy định của Luật Đấu thầu đối với các hoạt động mua sắm công tại cơ quan, đơn vị mình, để sao cho vừa đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ chuyên môn, vừa tuân thủ đúng quy định trong hoạt động mua sắm công, vừa đảm bảo đáp ứng tốt nhất việc công khai, minh bạch, hiệu quả và trách nhiệm giải trình theo quy định.
Nội dung và tình huống giả định nêu trên mang tính tham khảo./.
Dauthaumuasam.vn
